Thông tư số 25/2024/TT-BTNMT: Quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai
Ngày 10 tháng 1 năm 2025, Thông tư số 25/2024/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ chính thức có hiệu lực, quy định quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc quản lý và sử dụng đất đai một cách hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, khai thác thông tin liên quan đến đất đai trên toàn quốc.
Thành phần của cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai
Theo quy định tại khoản 1 Điều 165 của Luật Đất đai, cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai được thiết kế theo mô hình dữ liệu bao gồm bốn thành phần chính:
- Dữ liệu không gian đất đai: Thể hiện vị trí, ranh giới và hình dạng của các thửa đất.
- Dữ liệu thuộc tính đất đai: Cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tình trạng pháp lý và các thông tin liên quan khác.
- Dữ liệu đất đai phi cấu trúc: Bao gồm các tài liệu, hồ sơ không có cấu trúc rõ ràng, như báo cáo, hình ảnh, tài liệu quét.
- Siêu dữ liệu đất đai: Thông tin mô tả về các loại dữ liệu khác trong cơ sở dữ liệu, giúp người dùng hiểu rõ hơn về nguồn gốc và cách thức sử dụng dữ liệu.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai sẽ được tổ chức xây dựng và quản lý theo phân cấp từ trung ương đến địa phương. Cụ thể, các địa phương sẽ chịu trách nhiệm tổ chức xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đất đai trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Cơ sở dữ liệu địa phương và trung ương
Cơ sở dữ liệu đất đai do địa phương tổ chức xây dựng, quản lý trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao gồm:
- Cơ sở dữ liệu địa chính: Ghi nhận thông tin về quyền sử dụng đất, tình trạng pháp lý của các thửa đất.
- Cơ sở dữ liệu điều tra, đánh giá, bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất: Cung cấp thông tin về chất lượng đất, các biện pháp bảo vệ và phục hồi đất.
- Cơ sở dữ liệu giá đất: Thông tin về giá đất theo từng khu vực, loại đất.
- Cơ sở dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Thông tin về quy hoạch sử dụng đất trong từng giai đoạn.
- Cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai: Cung cấp số liệu thống kê về diện tích, tình trạng sử dụng đất.
Ngược lại, cơ sở dữ liệu đất đai do trung ương tổ chức xây dựng và quản lý sẽ bao gồm:
- Cơ sở dữ liệu điều tra, đánh giá, bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất: Đối với cấp vùng kinh tế – xã hội và cả nước.
- Cơ sở dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Đối với cấp quốc gia.
- Cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai: Đối với cấp vùng kinh tế – xã hội và cả nước.
- Cơ sở dữ liệu khác liên quan đến đất đai: Bao gồm hồ sơ đất đai tại trung ương, dữ liệu địa chỉ số của thửa đất, thông tin kết quả đo đạc lập bản đồ địa chính, dữ liệu về tổ chức, cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam, dữ liệu về Giấy chứng nhận bị thu hồi, hủy, và dữ liệu tổng hợp về giá đất.
Quy trình xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu
Thông tư quy định rằng cơ sở dữ liệu đất đai sau khi được xây dựng phải tuân thủ các quy định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về nội dung, cấu trúc và kiểu thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai. Các cơ sở dữ liệu thành phần phải được xây dựng đồng thời và liên kết, tích hợp với nhau. Trong đó, cơ sở dữ liệu địa chính được ưu tiên xây dựng trước, nhằm làm cơ sở cho việc định vị không gian các cơ sở dữ liệu thành phần khác.
Dữ liệu trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai phải thống nhất với thông tin, dữ liệu và tài liệu hồ sơ được sử dụng để xây dựng cơ sở dữ liệu này. Điều này đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của thông tin trong hệ thống.
Trong quá trình xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, các quy định về an toàn và bảo mật dữ liệu cũng cần được đảm bảo. Việc đồng bộ và tích hợp cơ sở dữ liệu đất đai do địa phương quản lý vào cơ sở dữ liệu quốc gia do trung ương quản lý phải được thực hiện thường xuyên, ngay sau khi cơ sở dữ liệu của địa phương được đưa vào quản lý và vận hành.
Quy mô và tổ chức triển khai
Quy mô tổ chức triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai được xác định theo đơn vị hành chính cấp huyện. Các thiết kế kỹ thuật và dự toán xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị hành chính cấp huyện đã xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai nhưng chưa đầy đủ dữ liệu của tất cả các đơn vị hành chính cấp xã, cần xây dựng bổ sung để đảm bảo khép kín đơn vị hành chính cấp huyện.
Đối với khu vực đất sản xuất nông nghiệp đã có kế hoạch hoặc đang thực hiện dồn điền đổi thửa, cơ sở dữ liệu địa chính sẽ được xây dựng trong quá trình thực hiện đo đạc, lập bản đồ địa chính, đăng ký và cấp Giấy chứng nhận.
Kết luận
Thông tư số 25/2024/TT-BTNMT không chỉ là một bước tiến quan trọng trong việc quản lý đất đai mà còn tạo ra một hệ thống thông tin minh bạch, dễ dàng truy xuất. Điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, sử dụng đất đai, đồng thời đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của xã hội.
Trích nguồn: Báo Luật Việt Nam